Mỗi máy tính trong một mạng muốn liên lạc hay trao đổi thông tin, dữ liệu cho nhau cần phải biết rõ địa chỉ IP của nhau. Nếu số lượng máy tính nhiều thì việc nhớ những địa chỉ IP này rất khó khăn.
Mỗi máy tính trong một mạng muốn liên lạc hay trao đổi thông tin, dữ liệu cho nhau cần phải biết rõ địa chỉ IP của nhau. Nếu số lượng máy tính nhiều thì việc nhớ những địa chỉ IP này rất khó khăn.
Mỗi máy tính ngoài địa chỉ IP ra còn có một tên (hostname). Đối với con người việc nhớ tên máy dù sao cũng dễ dàng hơn vì chúng có tính trực quan và gợi nhớ hơn địa chỉ IP. Vì thế, người ta nghĩ ra cách làm sao ánh xạ địa chỉ IP thành tên máy tính.
Ban đầu, do mô hình mạng AROA NET (tiền thân của mạng Internet) còn nhỏ chỉ vài trăm máy nên chỉ có một tập tin đơn hosts.txt lưu thông tin về ánh xạ tên máy thành địa chỉ IP. Trong đó tên máy chỉ là một chuỗi văn bản không phân cấp (flat name). Tập tin này được duy trì tại một máy chủ và các máy chủ khác lưu giữ bản sao của nó. Tuy nhiên, khi mô hình mạng lớn hơn, việc sử dụng tập tin hosts.txt có các nhưỡc điểm sau :
- Lực lượng mạng và máy chủ duy trì tập tin hosts.txt bị quá tải do hiệu ứng cổ chai.
- Xung đột tên : Không thể có hai máy tính có cùng tên trong tập tin hosts.txt. Tuy nhiên do tên máy không phân cấp và không có gì đảm bảo để ngăn chặn việc tại hai tên trùng nhau vì không có cơ chế ủy quyền quản lý tập tin nên có nguy cơ bị xung đột tên.
- Không đảm bảo sự toàn vẹn : việc duy trì một tập tin trên mạng lớn rất khó khăn. Ví dụ như khi tập tin hosts.txt vừa cập nhật chưa kịp chuyển đến máy chủ ở xa thì đã có sự thay đổi địa chỉ trên mạng rồi.
Tóm lại, việc dùng tập tin hosts.txt không phù hợp cho mạng lớn vì thiếu cơ chế phân tán và mở rộng. Do đó, dịch vụ DNS ra đời nhằm khắc phục các nhược điểm này. Người thiết kế cấu trúc của dịch vụ DNS là Paul Mockapetris – USC’s Information Sciences Institute và các khuyến nghị RFC của DNS là RFC 882 và 883, sau đó là RFC 1034 và 1035 cùng với một số RFC bổ sung như bảo mật trên hệ thống DNS, cập nhật động các bản ghi trên DNS, …
Lưu ý :
Hiện nay trên các máy chủ vẫn sử dụng được tập tin hosts.txt để phân giải tên máy tính thành địa chỉ IP (trong Windows, tập tin này nằm trong thư mục WINDOWS\system32\drivers\etc).
Dịch vụ DNS hoạt động theo mô hình Client-Server : phần Server gọi là máy chủ phục vụ tên hay còn gọi là Name Server., còn phần Client là trình phân giải tên – Resolver. Name Server chứa các thông tin cơ sở dữ liệu (CSDL) của DNS, còn Resolver đơn giản chỉ là các hàm thư viện dùng để tạo các truy vấn (query) và gởi chúng đến Name Server. DNS được thi hành như một giao thức tầng Application trong mạng TCP/IP.
DNS là một cơ sở dữ liệu phân tán. Điều này cho phép người quản trị cục bộ quản lý phần dữ liệu nội bộ thuộc phạm vi của họ đồng thời dữ liệu này cũng dễ dàng truy cập được trên toàn bộ hệ thống mạng theo mô hình Client-Server. Hiệu suất sử dụng dịch vụ được tăng cường thông qua cơ chế nhân bản (replication) và lưu tạm (caching). Một hostname trong domain là sử kết hợp giữa những từ phân cách nhau bởi dấu chấm (.).
Cơ sở dữ liệu của DNS là một cây đảm ngược. Mỗi nút trên cây cũng lại là gốc của 1 cây con. Mỗi cây con là một phân vùng con trong toàn bộ CSDL DNS gọi là một miền (domain). Mỗi domain có thể phân chia thành các phân vùng con nhỏ hơn gọi là các miền con (subdomain).
Mỗi domain có một tên (domain name). Tên domain chỉ ra vị trí của nó trong CSDL DNS. Trong DNS tên miền là chuỗi tuần tự các tên nhãn tại nút đó đi ngược lên nút gốc của cây và phân nhau cách bởi dấu chấm (.).
Tên nhãn bên phải trong mỗi domain name được gọi là top-level domain. Trong hình 1.1, srv1.csc.hcmuns.edu.vn, vậy miền “.vn” là top-level domain. Bảng sau đây liệt kê top-level domain :
Vì sự quá tải của những domain name đã tồn tại, do đó đã làm phát sinh những top-level domain mới. Bảng sau liệt kê những top-level domain mới :
Bên cạnh đó, mỗi nước cũng có một top-level domain. Ví dụ top-level domain của Việt Nam là .vn, Mỹ là .us, bạn có thể tham khảo thêm thông tin địa chỉ tên miền tại địa chỉ : http://www.thrall.org/domains.htm.
Ví dụ tên miền của một số quốc gia :
- Conditional forwarder : Cho phép Name Server chuyển các yêu cầu phân giải dựa theo tên domain trong yêu cầu truy vấn.
- Stub Zone : hỗ trợ cơ chế phân giải hiệu quả hơn.
- Đồng bộ các DNS zone trong Active Directory (DNS zone replication in Active Directory).
- Cung cấp một số cơ chế bảo mật tốt hơn trong các hệ thống Windows trước đây.
- Luân chuyển (Round robin) tất cả các loại RR.
- Cung cấp nhiều cơ chế ghi nhận và theo dõi sự cố lỗi trên DNS.
- Hỗ trợ giao thức DNS Security Extensions (DNSSEC) để cung cấp các tính năng bảo mật cho việc lưu trữ và nhân bản (replication) zone.
- Cung cấp tính năng EDNSO (Extension Mechanisms for DNS) để cho phép DNS Requestor quảng bá những zone transfer packet có kích thước lớn hơn 512 byte.
1 - Giới thiệu về DNS :
2 - Đặc điểm của DNS trong Windows 2003 :
Đăng nhận xét